1. HPV là gì?
HPV hay Papillomaviruses là những virus DNA sợi đôi, không có vỏ bọc, biểu mô hướng, lây nhiễm biểu mô niêm mạc và da ở nhiều loại động vật có xương sống bậc cao theo cách thức đặc trưng của loài và gây ra sự tăng sinh tế bào. Chỉ có virut gây u nhú ở bò (BPV) loại 1 và 2 cho thấy sự lây nhiễm giữa các loài khác nhau
Các kỹ thuật nghiên cứu hiện đại cung cấp một bức tranh mạch lạc về các cơ chế điều chỉnh sự biểu hiện và sao chép gen của virus. Tuy nhiên, những lỗ hổng trong hiểu biết về sinh học của HPV vẫn còn tồn tại. Sự tiến bộ nổi bật đã được thể hiện trong việc xác định hoạt động của oncoprotein virus từ các chủng HPV sinh dục có nguy cơ cao, đặc biệt là HPV 16 và 18, chúng thúc đẩy sự phá vỡ kiểm soát chu kỳ tế bào bình thường.
HPV lây truyền qua đường tình dục có hai loại là, HPV nguy cơ thấp có thể gây ra mụn cóc trên hoặc xung quanh bộ phận sinh dục, hậu môn, miệng hoặc cổ họng của bạn. HPV nguy cơ cao có thể gây ra các bệnh ung thư khác nhau:
- Ung thư cổ tử cung
- Ung thư hậu môn
- Một số loại ung thư miệng và họng
- Ung thư âm hộ
- Ung thư âm đạo
- Ung thư dương vật
Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều tự khỏi và không gây ung thư. Nhưng đôi khi các bệnh nhiễm trùng cũng sẽ kéo dài hơn. Khi nhiễm trùng HPV nguy cơ cao kéo dài trong nhiều năm, nó có thể dẫn đến sự thay đổi của tế bào. Nếu những thay đổi này không được điều trị, chúng có thể trở nên tồi tệ hơn theo thời gian và trở thành ung thư.
Có hơn 40 chủng HPV đã được phát hiện.
1. Phân loại virus HPV
Mỗi virut u nhú ở người có số lượng hoặc loại riêng. Thuật ngữ “u nhú” dùng để chỉ một loại mụn cóc do một số loại HPV gây ra.
HPV sống trong các tế bào phẳng, mỏng gọi là tế bào biểu mô. Chúng được tìm thấy trên bề mặt da. Chúng cũng được tìm thấy trên bề mặt của âm đạo, hậu môn, âm hộ, cổ tử cung và đầu dương vật. Chúng cũng được tìm thấy bên trong miệng và cổ họng.
Khoảng 60 trong số 100 tuýp HPV gây ra mụn cóc ở những vùng như bàn tay hoặc bàn chân. Khoảng 40 loại khác xâm nhập vào cơ thể khi quan hệ tình dục. Chúng bị hút vào các màng nhầy của cơ thể, chẳng hạn như các lớp ẩm xung quanh hậu môn và bộ phận sinh dục.
Không phải tất cả 40 loại virus gây u nhú ở người lây truyền qua đường tình dục đều gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Và chúng được phân thành 2 loại như sau
Rủi ro cao
Các chủng HPV nguy cơ cao bao gồm HPV 16 và 18, gây ra khoảng 70% trường hợp ung thư cổ tử cung. Các loại virus gây u nhú ở người có nguy cơ cao khác bao gồm 31, 33, 45, 52, 58 và một số loại khác.
Nguy cơ thấp
Các chủng HPV nguy cơ thấp, chẳng hạn như HPV 6 và 11, gây ra khoảng 90% mụn cóc ở bộ phận sinh dục, hiếm khi phát triển thành ung thư . Những sự tăng trưởng này có thể trông giống như vết sưng. Đôi khi, chúng có hình dạng giống như súp lơ. Mụn cóc có thể xuất hiện vài tuần hoặc vài tháng sau khi bạn quan hệ tình dục với bạn tình bị nhiễm bệnh.
Chủng HPV 16 và 18 có nguy cơ gây ra ung thư.
1. Một vài thông số khác về virus HPV
Hiện nay, có khoảng 218 tuýp HPV đã được phân lập và xác định là gây nhiễm trùng ở người. Trong số này, có 45 loại gây nhiễm trùng đường sinh dục, trong khi những loại khác sẽ gây bệnh ngoài da. Alpha HPV gây ra các tổn thương có thể nhìn thấy lâm sàng trên màng nhầy và da, trong khi HPV beta và gamma chịu trách nhiệm chính cho các tổn thương da cận lâm sàng dai dẳng thứ phát do nhiễm trùng sớm ở thời thơ ấu. Nhiễm trùng xảy ra chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp, mặc dù tổn thương da có thể lây truyền gián tiếp qua các bề mặt bị ô nhiễm. Chấn thương vi mô làm lộ lớp tế bào sừng ở lớp đáy và tạo điều kiện cho sự lây lan.
Mụn cóc ở da (CW) liên quan đến các loại HPV không lây truyền qua đường tình dục có các đặc điểm dịch tễ học hoàn toàn khác nhau và chủ yếu do các loại 1, 2, 4, 27 và 57 gây ra. Mặc dù đây là những loại phổ biến nhất trong một số nghiên cứu, tỷ lệ cá nhân bị ảnh hưởng bởi mỗi người trong số họ là khá thay đổi. Một nghiên cứu được thực hiện tại các trường học ở Hà Lan cho thấy CW chiếm khoảng một phần ba số người tham gia, với tỷ lệ phổ biến tăng dần theo độ tuổi, từ khoảng 15% sau 4 năm lên khoảng 44% sau 11 năm, không có sự khác biệt giữa các giới tính. Nhiễm trùng HPV loại 1 ảnh hưởng đến nhóm tuổi trẻ hơn, thường xuyên hơn ở vùng lòng bàn chân, với ít tổn thương hơn và nhỏ hơn, trong khi HPV 2 chịu trách nhiệm cho đỉnh thứ hai, trong thập kỷ thứ hai và thứ ba của cuộc đời. Các yếu tố rủi ro chính được tìm thấy ở bệnh nhân học đường là các thành viên gia đình gần gũi với CW và gia đình có nhiều trẻ em. Việc lây truyền qua nhà vệ sinh công cộng và phòng thay đồ không liên quan về mặt thống kê trong nghiên cứu đó. Quá trình tự nhiễm cũng được mô tả, đặc biệt khi có tổn thương ở các ngón tay. Tỷ lệ CWs trong dân số nói chung được ước tính vào khoảng 5% và là kết quả của việc nhiễm trùng liên tục và lặp đi lặp lại bởi nhiều loại.
Dược sỹ Tùng Lê